Suy hô hấp cấp là gì? Các công bố khoa học về Suy hô hấp cấp

Suy hô hấp cấp (acute respiratory distress syndrome - ARDS) là một tình trạng khẩn cấp trong hệ thống hô hấp, khi phổi bị tổn thương nghiêm trọng và không thể c...

Suy hô hấp cấp (acute respiratory distress syndrome - ARDS) là một tình trạng khẩn cấp trong hệ thống hô hấp, khi phổi bị tổn thương nghiêm trọng và không thể cung cấp đủ oxy cho cơ thể. ARDS thường xảy ra sau một sự cố hoặc chấn thương nghiêm trọng, chẳng hạn như viêm phổi nặng, hút thuốc, tai nạn giao thông, hoặc suy tim. Các triệu chứng của ARDS bao gồm khó thở nghiêm trọng, mệt mỏi, da xanh xao, và giảm sự ngụy trang của phổi trong các phim chiếu hậu phổi. Trong trường hợp này, trạng thái suy hô hấp cấp cần được điều trị ngay lập tức bởi chuyên gia y tế có liên quan.
ARDS là một bệnh lý phức tạp và tiềm ẩn nguy hiểm. Nó đã được xác định là sự phản ứng viêm nhiễm và tổn thương cấu trúc của phổi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi bị tổn thương, màng tế bào trong phổi bị vi phạm, dẫn đến chảy máu và lọc mất chất lỏng vào các túi khí phổi, từ đó gây ra suy giảm khả năng trao đổi khí.

Các nguyên nhân tổn thương phổi và gây ARDS có thể là: vi khuẩn, virus hoặc nấm gây viêm phổi; viêm khớp dạng thấp; tổn thương trực tiếp do việc hấp thụ chất độc hoặc ảnh hưởng của hoá chất; và chấn thương trực tiếp từ tai nạn hoặc phẫu thuật.

Các triệu chứng của ARDS bao gồm:

1. Khó thở nghiêm trọng: Bạn có thể cảm thấy không thể lấy hơi đầy đủ, thậm chí khi nằm nghiêng người.

2. Mệt mỏi: Bạn có thể cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối dễ dàng.

3. Nhịp thở tăng: Nhịp thở của bạn có thể tăng nhanh để cố gắng cung cấp đủ oxy cho cơ thể.

4. Da xanh xao: Sự thiếu oxy có thể làm da trở thành màu xanh nhợt.

5. Ho: Một số người có thể ho hoặc có tiếng thở rít.

Điều trị ARDS tập trung vào điều trị nguyên nhân gốc rễ gây ra bệnh, giữ cho phổi có đủ oxy và duy trì chức năng hô hấp. Điều này bao gồm việc sử dụng máy thở để cung cấp oxy và điều chỉnh áp lực trong phổi, điều trị nhiễm trùng bằng kháng sinh, và hỗ trợ xương sống để giúp phổi đủ thở. Trong một số trường hợp nặng, người bệnh có thể cần thụ tinh tế không khí, thụ dịch hoặc thậm chí phẫu thuật để khắc phục các vấn đề về phổi.

Quá trình hồi phục của ARDS có thể kéo dài và yêu cầu thời gian dài để phục hồi. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, ARDS có thể gây tử vong.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "suy hô hấp cấp":

Tính thâm nhập hệ thần kinh trung ương của SARS‐CoV-2 có thể đóng vai trò gây suy hô hấp ở bệnh nhân COVID-19 Dịch bởi AI
Journal of Medical Virology - Tập 92 Số 6 - Trang 552-555 - 2020
Tóm tắt

Theo sau hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng coronavirus (SARS‐CoV) và hội chứng hô hấp Trung Đông coronavirus (MERS‐CoV), một loại coronavirus gây bệnh nặng khác được gọi là SARS‐CoV-2 (trước đây được biết đến với tên 2019‐nCoV) đã xuất hiện vào tháng 12 năm 2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc, và lan nhanh ra khắp thế giới. Virus này có trình tự giống cao với SARS‐CoV và gây ra bệnh viêm phổi coronavirus cấp tính nguy hiểm chết người năm 2019 (COVID‐19) với các triệu chứng lâm sàng tương tự như các triệu chứng báo cáo cho SARS‐CoV và MERS‐CoV. Triệu chứng đặc trưng nhất của bệnh nhân COVID‐19 là suy hô hấp, và hầu hết các bệnh nhân nhập viện chăm sóc đặc biệt không thể thở tự phát. Ngoài ra, một số bệnh nhân COVID-19 cũng có biểu hiện triệu chứng thần kinh, như đau đầu, buồn nôn và nôn. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng các coronavirus không chỉ giới hạn ở đường hô hấp mà còn có thể xâm nhập hệ thần kinh trung ương gây ra các bệnh thần kinh. Nhiễm trùng SARS‐CoV đã được báo cáo ở não của cả bệnh nhân và động vật thí nghiệm, nơi thân não bị nhiễm nghiêm trọng. Hơn nữa, một số coronavirus đã được chứng minh có khả năng lan truyền qua đường kết nối synapse đến trung tâm hô hấp tim mạch từ các thụ thể cơ học và hóa học trong phổi và đường hô hấp dưới. Xét sự tương đồng cao giữa SARS‐CoV và SARS‐CoV-2, vẫn cần làm rõ liệu khả năng xâm nhập tiềm tàng của SARS‐CoV-2 có phải là phần nào chịu trách nhiệm cho suy hô hấp cấp tính của bệnh nhân COVID-19 hay không. Nhận thức về điều này có thể mang ý nghĩa chỉ đạo cho công tác phòng ngừa và điều trị suy hô hấp do SARS‐CoV-2 gây ra.

#COVID-19 #SARS‐CoV-2 #suy hô hấp #hệ thần kinh trung ương #viêm phổi coronavirus #hội chứng suy hô hấp cấp tính #triệu chứng thần kinh
Tổn thương phổi cấp tính: Một cái nhìn lâm sàng và phân tử Dịch bởi AI
Archives of Pathology and Laboratory Medicine - Tập 140 Số 4 - Trang 345-350 - 2016

Tổn thương phổi cấp tính (ALI) và hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS) là một quá trình liên tục của những thay đổi ở phổi xảy ra từ nhiều loại tổn thương phổi khác nhau, thường dẫn đến tình trạng bệnh tật đáng kể và thường là tử vong. Nghiên cứu về bệnh sinh phân tử của ALI/ARDS đang tiếp diễn, với mục tiêu phát triển các sinh marker phân tử tiên đoán và liệu pháp dựa trên phân tử. Bối cảnh.—

Mục tiêu là xem xét các đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và bệnh lý của ALI/ARDS; và bệnh sinh phân tử của ALI/ARDS, với sự cân nhắc đến các sinh marker phân tử có thể tiên đoán/tiên lượng và các liệu pháp dựa trên phân tử có thể. Mục tiêu.—

Kiểm tra tài liệu y khoa bằng tiếng Anh liên quan đến ALI và ARDS. Nguồn dữ liệu.—

ARDS chủ yếu là một chẩn đoán lâm sàng-hình ảnh; tuy nhiên, sinh thiết phổi đóng vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán ở một số trường hợp. Nhiều tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong việc làm sáng tỏ bệnh sinh của ARDS và trong việc dự đoán phản ứng của bệnh nhân, tuy nhiên hiện tại chưa có sinh marker phân tử nào khả thi để dự đoán mức độ nghiêm trọng của ARDS, hoặc các liệu pháp ARDS dựa trên phân tử. Các cytokine tiền viêm TNF-α (yếu tố hoại tử khối u α), interleukin (IL)-1β, IL-6, IL-8 và IL-18 nằm trong số những sinh marker đầy hứa hẹn nhất cho việc dự đoán mức độ bệnh tật và tử vong. Kết luận.—

#Tổn thương phổi cấp tính #Hội chứng suy hô hấp cấp #Bệnh sinh phân tử #Sinh marker phân tử #Cytokine tiền viêm
Khóa thần kinh cơ trong hội chứng suy hô hấp cấp tính: một đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2020
Tóm tắt Nền tảng

Chất ức chế thần kinh cơ (NMBA) đã được đề xuất bởi các hướng dẫn y tế cho hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng (ARDS) do lợi ích sống còn của nó. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới đã cung cấp bằng chứng trái ngược với kết quả này.

Phương pháp

Một cuộc tìm kiếm đã được thực hiện trên cơ sở dữ liệu Pubmed, Scopus, Clinicaltrials.gov và Thư viện Y tế Ảo cho các thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên (RCT) đánh giá tỷ lệ tử vong trong 28 ngày ở bệnh nhân ARDS được điều trị bằng NMBA trong vòng 48 giờ. Một hạn chế về ngôn ngữ tiếng Anh đã được áp dụng. Dữ liệu liên quan đã được trích xuất và tổng hợp thành tỷ lệ rủi ro (RR), chênh lệch trung bình (MD) và khoảng tin cậy 95% (CI) tương ứng bằng cách sử dụng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên. Phân tích độ nhạy và hồi quy tổng hợp đã được thực hiện.

#Khóa thần kinh cơ #hội chứng suy hô hấp cấp tính #tỷ lệ tử vong #thử nghiệm ngẫu nhiên #phân tích tổng hợp
KẾT QỦA BƯỚC ĐẦU ÁP DỤNG ECMO - VV ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SUY HÔ HẤP CẤP NẶNG TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 30 - Trang 13-18 - 2020
Mục tiêu: Nhận xét kết quả bước đầu áp dụng ECMO (Extra Corporeal Membrane Oxygenation) - VV trong điều trị bệnh nhân (BN) suy hô hấp cấp (ARDS) nặng tại Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương (ICU - NHTD). Đối tượng và phương pháp: 16 bệnh nhân ARDS nặng được can thiệp điều trị kỹ thuật ECMO - VV tại ICU - NHTD. Nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh. Kết quả: 16 bệnh nhân, nam giới chiếm 10/16 BN, tuổi trung bình là 48 ± 17 tuổi. Trước khi can thiệp ECMO - VV, điểm SOFA trung bình của BN là 9 ± 5, 100% BN có điểm Murray > 3,75 điểm. 100% các BN được đặt cannunla ECMO - VV qua da theo phương pháp Seldinger vị trí tĩnh mạch đùi, tĩnh mạch cảnh trong phải. Thời gian can thiệp ECMO trung bình là 18 ngày. Biến chứng gặp phổ biến nhất là chảy máu: 13 BN (81%). Kết quả điều trị 8 BN (50%) ổn định ra viện. BN ARDS do nhiễm cúm có tỷ lệ sống cao hơn hẳn do các căn nguyên khác (80% so với 40%). Kết luận: ECMO - VV là kỹ thuật có hiệu quả cao để điều trị BN ARDS nặng. Đặc biệt, với BN ARDS do nhiễm cúm.
#Viêm phổi nặng #Hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS) #ECMO - VV
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHI 6-60 THÁNG TUỔI MẮC BỆNH NHIỄM TRÙNG HÔ HẤP CẤP TÍNH ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI HAI BỆNH VIỆN TUYẾN HUYỆN Ở THÁI BÌNH NĂM 2017
Nhiễm trùng hô hấp cấp tính (NTHHCT) là một nhóm bệnh hay gặp ở trẻ em, có tỷ lệ tử vongcao, đặc biệt là viêm phổi. NTHHCT và suy dinh dưỡng (SDD) tạo thành vòng luẩn quẩn trongquá trình điều trị, làm gia tăng mức độ nặng của bệnh dẫn đến ảnh hưởng tăng trưởng của trẻ.Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng (TTDD) của bệnh nhi từ 6-60 tháng tuổi bị mắc NTHHCT nằm điều trị nội trú tại 2 bệnh viện tuyến huyện ở Thái Bình năm 2017. Nghiên cứu mô tảcắt ngang trên 218 bệnh nhi mắc NTHHCT từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2017. Kết quả: Tỷ lệSDD khi nhập viện là 24,8%, sau ba ngày nhập viện, tỷ lệ này là 28,9%. Trẻ bị viêm phổi có tỷ lệSDD cao nhất, tiếp đến là NTHH trên, NTHH dưới lần lượt là 27,7%; 19,6%; 11,8%. Tỷ lệ gàysút cân ở bệnh nhi bị viêm phổi cao hơn bệnh nhi mắc NTHH trên (59,4% so với 52,2%).
#Suy dinh dưỡng #nhiễm trùng hô hấp cấp tính #bệnh viện đa khoa Vũ Thư #bệnh viện đa khoa Đông Hưng #Thái Bình
HIỆU QUẢ CỦA THỞ ÁP LỰC DƯƠNG LIÊN TỤC QUA MŨI TRONG ĐIỀU TRỊ SUY HÔ HẤP CẤP Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của thở áp lực dương liên tục qua mũi (NCPAP) bằng van Benveniste trong điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ em tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 31 bệnh nhi suy hô hấp cấp được điều trị bằng phương pháp thở áp lực dương liên tục qua mũi bằng van Benveniste tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Nhi Trung ương trong thời gian từ 7/2020 đến 6/2021. Kết quả: Tỷ lệ thành công của thở áp lực dương liên tục qua mũi bằng van Benveniste là 61.3%, thời gian thở NCPAP trung bình là 5.23 ngày. Sau 6 giờ thở NCPAP, các chỉ số về khí máu được cải thiện rõ rệt: PaO2 tăng từ 77.98mmHg lên 110.33mmHg, SaO2 tăng từ 87.67% lên 95.95%, PaCO2 giảm từ 59.02mmHg xuống 54.48 mmHg, pH tăng từ 7.32 lên 7.37. Tỷ lệ trẻ thở nhanh giảm từ 96.8% xuống còn 45.2%, tỷ lệ trẻ có rút lõm lồng ngực giảm từ 90.3% còn 58.1%, tỷ lệ trẻ có tím từ 96.8% giảm còn 35.5% và tỷ lệ trẻ kích thích hoặc li bì từ 96.8% giảm còn 22.6%. Kết luận: Thở áp lực dương liên tục qua mũi bằng van Benveniste có hiệu quả trong việc cải thiện các chỉ số về khí máu cũng như dấu hiệu lâm sàng của suy hô hấp ở trẻ em tại thời điểm sau 6 giờ.
#suy hô hấp cấp #thở áp lực dương liên tục qua mũi #khí máu
ĐẶC ĐIỂM CÁC VÙNG PHỔI THEO THANG ĐIỂM SIÊU ÂM PHỔI Ở BỆNH NHÂN SUY HÔ HẤP CẤP TIẾN TRIỂN ĐƯỢC THÔNG KHÍ XÂM NHẬP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm các vùng phổitheo bảng điểm siêu âm phổi ở bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển (Acute Respiratory Distress Syndrome – ARDS) được thông khí xâm nhập. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu thực hiện trên 24 bệnh nhân ARDS được thông khí xâm nhập tại khoa Cấp cứu và khoa Hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2019 đến tháng 10/2020. Siêu âm được thực hiệntrên 12 vùng phổi theo bảng điểm siêu âm phổi điểm cao nhất 3 điểm khi có hình ảnh đông đặc, thấp nhất là 0 điểm khi có hình ảnh A – line. Phân tích phân bố của hình ảnh siêu âm phổi này theo mức độ nặng của ARDS và theo các vùng của phổi bằng phần mềm thống kê y học SPSS 20.0. Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện 64 lần siêu âm phổi trên 24 bệnh nhân ARDS được thông khí xâm nhập có tuổi trung bình 44±13 (năm), tỷ lệ nam: nữ là 2:1. Hình ảnh đông đặc và B – line xuất hiện chủ yếu tại vùng sau, dưới của phổi. Hình ảnh B2 xuất hiện ở 100% bệnh nhân nghiên cứu. Bệnh nhân ARDS nặng có nhiều hình ảnh B2 (75%), C (75%) tuy nhiên điểm siêu âm phổi tổng và từng vùng không tăng dần theo mức độ nặng theo phân loại Berlin 2012. Kết luận:  Hình ảnh siêu âm phân bố không đều giữa các vùng phổi với hình ảnh đông đặc, B2 tập trung chủ yếu tại vùng sau, dưới của phổi.
#suy hô hấp cấp tiến triển #bảng điểm siêu âm phổi
TỶ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI TÁI NHẬP VIỆN HOẶC TỬ VONG Ở NGƯỜI BỆNH SUY TIM CẤP TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mở đầu: Suy tim cấp là nguyên nhân nhập viện hàng đầu ở người trên 65 tuổi với tỷ lệ tử vong và tái nhập viện cao, góp phần nhiều nhất (gần 70%) vào tổng chi phí chăm sóc y tế liên quan đến suy tim. Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến tái nhập viện hoặc tử vong trong 30 ngày và trong 90 ngày sau khi xuất viện trên người bệnh suy tim cấp tại Bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 106 người bệnh được chẩn đoán xuất viện suy tim cấp hoặc đợt cấp mất bù suy tim mạn từ 01/01/2018 đến 31/12/2019 và có đầy đủ thông tin về tái nhập viện hoặc tử vong trong 30 ngày và 90 ngày kể từ khi xuất viện. Dữ liệu khảo sát bao gồm đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, thuốc điều trị, thông tin tái nhập viện hoặc tử vong được thu thập từ hồ sơ bệnh án và phỏng vấn qua điện thoại. Kết quả: Tuổi trung vị của người bệnh là 78 (67 – 84), có 49,1% người bệnh là nữ giới. Tỷ lệ tái nhập viện hoặc tử vong trong 30 ngày và 90 ngày lần lượt là 34,9% và 56,6%. Kết quả phân tích hồi quy logistics đơn biến cho thấy, trong vòng 30 ngày sau xuất viện, những người bệnh tuổi trên 65 (OR: 3,71), mắc kèm hội chứng mạch vành cấp (OR: 3,06), NT-proBNP lúc nhập viện trên 3000 ng/mL (OR: 2,39) và NT-proBNP xuất viện trên 3000 ng/mL (OR: 3,49) là những yếu tố làm tăng khả năng tái nhập viện hoặc tử vong. Ngược lại, thể huyết động là ấm – ướt làm giảm 63% khả năng tái nhập viện hoặc tử vong (OR 0,37; 95% CI 0,14 – 0,94; P = 0,038) so với thể ấm – khô. Trong vòng 90 ngày sau xuất viện, người bệnh có NT-proBNP nhập viện trên 3000 pg/mL có khả năng nhập viện hoặc tử vong cao hơn nhóm còn lại (OR 2,68; 95% CI 1,19 – 6,06; P = 0,018). Kết luận: Tỷ lệ tái nhập viện hoặc tử vong trên người bệnh suy tim cấp khá cao. Tuổi cao, mắc kèm hội chứng mạch vành cấp, thể huyết động, NT-proBNP nhập viện và xuất viện cao là những yếu tố nên được cân nhắc theo dõi chặt chẽ hơn trong quá trình điều trị nhằm giảm biến cố tái nhập viện hoặc tử vong sau xuất viện.
#suy tim cấp #đợt cấp mất bù suy tim mạn #tái nhập viện #tử vong
Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị của bệnh nhân bỏng nặng có biến chứng ARDS
Mục tiêu: Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị của bệnh nhân  bỏng nặng có biến chứng ARDS.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 66 bệnh nhân bỏng nặng có biến chứng ARDS điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Bỏng Quốc gia từ năm 2014 đến 2017. Các chỉ tiêu đưa vào phân tích, đánh giá bao gồm: Đặc điểm chung của bệnh nhân, các đặc điểm về bệnh bỏng, mức độ nặng của ARDS, một số chỉ tiêu lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân, các chỉ tiêu về cài đặt máy thở và cơ học phổi.Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân bỏng có biến chứng ARDS là 62,12%. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy, có 4 yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị của bệnh nhân ARDS sau bỏng là nồng độ lactate máu (p = 0,024, OR = 6,7089), số lượng tiểu cầu (p = 0,04, OR = 0,9927), độ giãn nở phổi tĩnh (p = 0,006, OR = 0,7342) và áp lực chênh trong cài đặt máy thở để đạt được thể tích khí lưu thông theo mong muốn (p = 0,0058, OR = 1,6975).Kết luận: Nồng độ lactate máu, số lượng tiểu cầu, độ giãn nở phổi tĩnh và áp lực chênh trong cài đặt máy thở là các yếu nguy cơ độc lập ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh nhân bỏng nặng có biến chứng ARDS.
#Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) #yếu tố nguy cơ
Hiệu quả của phương thức thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp điều trị hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển trên bệnh nhân bỏng nặng (Thông báo lâm sàng).
Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển là một biến chứng thường gặp ở bệnh nhân bỏng nặng, đặc biệt bỏng hô hấp kết hợp. Thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp được xem là có hiệu quả cải thiện trao đổi khí ở những bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển mức độ nặng. Ở bệnh nhân bỏng, TKNT tư thế nằm sấp đặt ra những thách thức lớn trong công tác chăm sóc và theo dõi bệnh nhân.Do đó, đến nay rất ít nghiên cứu trên thế giới được công bố áp dụng phương thức thông khí này. Chúng tôi báo cáo điều trị thành công hai ca bỏng biến chứng suy hô hấp cấp tiến triển mức độ nặng được áp dụng phương thức thông khí nhân tạo tư thế nằm sấp.
Tổng số: 32   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4